Tính đến 15/8, Việt Nam đã nhập khẩu 8,7 triệu tấn dầu thô

30/08/2024 09:44

Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, tính đến ngày 15/8, Việt Nam chi 5,5 tỷ USD để nhập khẩu 8,7 triệu tấn dầu thô từ các thị trường, tăng lần lượt 25% về lượng và 20% về kim ngạch so với cùng kỳ năm trước.

Giá dầu thô nhập khẩu trung bình lũy kế đến 15/8 đạt 631,2 USD/tấn, tăng 3,4% so với mức 610,4 USD/tấn tại cùng kỳ năm trước.

Về thị trường, Việt Nam nhập khẩu dầu thô từ 3 thị trường chính bao gồm Brunei, Kuwait và Nigeria. Được biết, hiện Kuwait là nhà cung cấp dầu thô lớn nhất cho Việt Nam. Kuwait bắt đầu xuất khẩu dầu thô năm 1946 và là thành viên sáng lập của OPEC.

Kuwait hiện là nhà khai thác với nguồn cung lớn thứ năm của OPEC sau Saudi Arabia, Iraq, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) và Iran, có trữ lượng dầu đã được chứng minh là 101,5 tỷ thùng.

Chỉ riêng 7 tháng năm 2024, Việt Nam đã nhập khẩu tới 7,09 triệu tấn từ quốc gia này, chiếm 88% tổng lượng nhập khẩu dầu thô. So với cùng kỳ năm trước, lượng dầu thô nhập khẩu từ Kuwait tăng 23,4%.

Giá nhập khẩu dầu thô từ quốc gia này cũng ghi nhận tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước, lên mức 595,6 USD/tấn. Điều này đã kéo mức tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu dầu thô từ Kuwait tăng 29,3% so với cùng kỳ năm trước, đạt 4,42 tỷ USD.

Tính đến 15/8, Việt Nam đã nhập khẩu 8,7 triệu tấn dầu thô- Ảnh 1.

Tính đến ngày 15/8, Việt Nam chi 5,5 tỷ USD để nhập khẩu dầu thô từ các thị trường. Ảnh minh họa: Getty Images

Việt Nam còn nhập khẩu 263.008 tấn dầu thô từ Nigeria với kim ngạch 182 triệu USD trong 7 tháng năm 2024; nhập 82.021 tấn với kim ngạch 55,5 triệu USD từ Brunei. Không ghi nhận mức tăng trưởng về lượng và kim ngạch nhập khẩu dầu thô của hai quốc gia này do cùng kỳ năm trước Tổng cục Hải quan không ghi nhận số liệu.

Việt Nam là quốc gia khai thác dầu thô, có hoạt động xuất khẩu, nhưng vẫn phải nhập một lượng dầu thô rất lớn. Nguyên nhân, theo các chuyên gia, sản lượng khai thác trong nước giảm dần. Sản lượng này phản ánh sự suy giảm sản lượng từ các mỏ dầu truyền thống đã đi vào giai đoạn suy kiệt, khiến nguồn cung trong nước không đủ đáp ứng nhu cầu.

Bên cạnh đó là do chủng loại dầu thô trong nước không hoàn toàn phù hợp với các nhà máy hiện có. Dầu thô có nhiều chủng loại, đặc tính khác nhau, như dầu ngọt, dầu nhẹ, dầu nặng... Mỗi loại dầu phục vụ sản xuất ra sản phẩm thành phẩm khác nhau, như xăng, dầu diesel, dầu hỏa, mazut... và các sản phẩm hóa dầu khác.

Do đó, dù có khai thác được dầu trong nước, nhưng không phải dầu thô nào cũng phù hợp với công nghệ lọc của Nhà máy Lọc dầu Nghi Sơn và Nhà máy Lọc dầu Dung Quất. Vì vậy, Việt Nam vẫn phải xuất dầu thô không phù hợp với công nghệ lọc trong nước và nhập khẩu loại dầu thô thích hợp về để lọc, sản xuất ra các loại xăng dầu để phục vụ tiêu dùng trong nước.

Huyền My (t/h)