Theo Cục Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), cả nước hiện có khoảng 1,5 triệu hộ gia đình đang quản lý gần 2 triệu ha rừng trồng sản xuất, chiếm khoảng 50% diện tích rừng trồng sản xuất cả nước. Diện tích còn lại do các doanh nghiệp và các công ty lâm nghiệp quản lý.
Tính đến hết tháng 10/2024, cả nước hiện có khoảng gần 600 nghìn ha chứng chỉ rừng (CCR) bền vững, trong đó chứng chỉ FSC khoảng 410 nghìn ha và chứng chỉ PEFC/VFCS khoảng 183 nghìn ha.
Theo kết quả điều tra, tính đến hết tháng 10/2024, trong tổng số diện tích rừng được cấp chứng chỉ, diện tích rừng do hộ gia đình, cá nhân được cấp theo hình thức chứng chỉ nhóm là: 300.816 ha, chiếm 50%.
Trong đó, hình thức liên kết với doanh nghiệp chế biến gỗ đứng ra làm đại diện nhóm và thu mua gỗ có chứng chỉ là chủ yếu, khoảng 220.000 ha (chiếm 73,3%); các diện tích còn lại là cấp chứng chỉ nhóm theo hình thức hội chủ rừng và hợp tác xã.
Từ kết quả trên, Tổng cục Lâm nghiệp đã hợp tác với tổ chức Chứng chỉ rừng quốc tế (PEFC) thực hiện cấp chứng chỉ rừng theo hệ thống quốc gia Việt Nam PEFC/VFCS theo tiêu chuẩn quốc tế. Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và đã đặt mục tiêu có được 1 triệu ha chứng chỉ rừng vào năm 2030.
Theo các chuyên gia, việc xây dựng mô hình liên kết chủ rừng quy mô nhỏ với doanh nghiệp chế biến gỗ và thực hiện quản lý rừng bền vững (QLRBV) và cấp chứng chỉ cho nhóm hộ gia đình trồng rừng rất cần thiết, góp phần nâng cao giá trị gỗ rừng trồng, thúc đẩy phát triển hệ thống CCR Quốc gia, góp phần xây dựng hình ảnh, thương hiệu của sản phẩm gỗ Việt trên thị trường quốc tế.
Để nhân rộng mô hình này, Cục Lâm nghiệp cho rằng, thứ nhất, cần tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho hộ gia đình trong thực hiện QLRBV và CCR. Theo đó: phải đem lại lợi ích rõ ràng cho các bên tham gia; đối với chủ rừng, cần phải được thấy rõ không chỉ là lợi ích trước mặt (giá trị gia tăng từ bán gỗ có chứng chỉ) mà cần quan tâm cả lợi ích dài hạn như tăng năng suất, chất lượng rừng, sản lượng gỗ lớn, duy trì tính bền vững.
Thứ hai, cơ quan chuyên môn về lâm nghiệp và chính quyền địa phương cần tăng cường vai trò trong việc hỗ trợ thành lập các nhóm hộ chủ rừng, các ban đại diện nhóm nhằm tạo mối liên kết phải thực sự chặt chẽ về tổ chức, trong đó có sự tham gia sâu của đại diện chủ rừng vào ban đại diện nhóm; hỗ trợ nhóm trong việc xây dựng quy chế hoạt động của nhóm để quy định cụ thể về quyền lợi, trách nhiệm của các bên, nhằm giảm thiểu rủi ro cho chủ rừng cũng như doanh nghiệp.
Thứ ba, về phía các địa phương tăng cường thu hút các doanh nghiệp chế biến gỗ đầu tư, xây dựng nhà máy gắn với vùng nguyên liệu tại địa phương, từ đó các doanh nghiệp tổ chức sản xuất, liên kết với chủ rừng hộ gia đình trong phát triển vùng nguyên liệu có CCR, bền vững, thực sự gắn kết lâu dài giữa nhà máy và người trồng rừng.
Thứ tư, cần triển khai, áp dụng hiệu quả các cơ chế, chính sách hỗ trợ của nhà nước về hỗ trợ đầu tư phát triển vùng nguyên liệu, chính sách hỗ trợ cấp CCR để giản bớt khó khăn về tài chính ban đầu cho doanh nghiệp, chủ rừng.
Thứ năm, các địa phương triển khai các chính sách hỗ trợ liên quan như giao đất giao rừng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cung cấp các cơ sở dữ liệu và bản đồ về hiện trạng rừng... đảm bảo các điều kiện thực hiện gỗ hợp pháp, và là dữ liệu quan trọng trong thực hiện QLRBV và cấp CCR.