Chỉ trong tháng 4, xuất khẩu than đã đạt 109.219 tấn, tương đương 29,4 triệu USD, tăng đột biến tới 10.155% về lượng và tăng 10.105% về giá trị so với tháng trước. So với tháng 4/2023, xuất khẩu than tháng này tăng gần 16.900% về lượng và tăng hơn 13.000% về giá trị.
Đây là tháng mà xuất khẩu than hay còn gọi là "vàng đen" có mức tăng trưởng kỷ lục so với cùng kỳ các năm trước và tăng trên 100 lần so với tháng trước đó.
Lũy kế 4 tháng đầu năm, xuất khẩu than đạt 112.112 tấn, tương đương 30,27 triệu USD, tăng 30 lần về lượng và tăng 23 lần về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái.
Về thị trường, Nhật Bản vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của than Việt Nam trong 4 tháng đầu năm, đạt 53.404 tấn, tương đương 12,43 triệu USD, tăng mạnh 14.612% về lượng và tăng 9.578% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Nước này chiếm 47,6% về lượng và 41,1% về kim ngạch trong tổng lượng xuất khẩu 4 tháng năm 2024. Giá xuất khẩu bình quân đạt 232,8 USD/tấn, giảm 34% so với cùng kỳ 2023.
Tiếp đến là Hà Lan, Nam Phi cũng tăng trưởng ấn tượng, gấp nhiều lần. Đặc biệt giá xuất khẩu sang các thị trường này cao hơn nhiều so với Nhật Bản và đạt trên 315 USD một tấn. Hiện, giá xuất khẩu bình quân của than chỉ đạt 270 USD một tấn, giảm 24,3% so với cùng kỳ năm ngoái, riêng thị trường trọng điểm Nhật Bản, giá giảm tới 34%.
Ngoài ra, các thị trường khác cũng chứng kiến mức tăng trưởng mạnh như Thái Lan, Philippines, Malaysia. Việc các quốc gia tăng cường nhập khẩu là do nhu cầu sử dụng than cho các hoạt động sản xuất, đặc biệt là nhiệt điện ngày càng tăng trong khi thủy điện gặp khó. Nguyên nhân do ảnh hưởng của hiện tượng El Nino khiến thời tiết nóng lên kỷ lục.
Theo thống kê của tổ chức thế giới, tình hình nước về các hồ thủy điện của nhiều quốc gia vẫn thấp so với trung bình nhiều năm. Tại Nhật Bản, theo Mordorintelligence nhu cầu nhiệt điện đã tăng cao hơn so với trước đại dịch, nguồn nhiệt điện kỳ vọng chiếm lĩnh thị trường. Theo thống kê của Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI), số lượng các nhà máy nhiệt điện ở quốc gia này chiếm phần lớn.
Ngoài Nhật Bản, các thị trường khác cũng chứng kiến mức tăng trưởng mạnh như Thái Lan, Philippines, Malaysia. Họ đều tăng cường nhập khẩu than cho các hoạt động sản xuất, đặc biệt là nhiệt điện.
Bộ Công Thương cho biết, dự kiến khả năng huy động than tăng trong giai đoạn từ nay đến năm 2030 đạt từ 43-47 triệu tấn than thương phẩm/năm. Sau đó, giảm dần vào giai đoạn 2035-2045.
Theo dự báo, nhu cầu than sẽ ngày càng tăng cao đến năm 2035 từ 94-127 triệu tấn/năm, chủ yếu do sự gia tăng nhu cầu cho sản xuất điện và các ngành kinh tế như xi măng, luyện kim, hóa chất, sau đó sẽ giảm dần còn từ 73-76 triệu tấn vào năm 2045.
Trong khi đó, than thương phẩm sản xuất trong nước chỉ duy trì khoảng 45-47 triệu tấn/năm trong giai đoạn 2025-2035 và giảm dần còn 42-44 triệu tấn/năm vào 2045. Do vậy, để đáp ứng nhu cầu than phục vụ sản xuất, dự kiến sẽ phải nhập khẩu khoảng 50-83 triệu tấn vào giai đoạn 2025-2035 và giảm dần còn khoảng 32-35 triệu tấn vào năm 2045.
Huyền My (t/h)
Link nội dung: https://doanhnghiepvaphapluat.vn/viet-nam-xuat-khau-112112-tan-than-thu-ve-3027-trieu-usd-a14249.html