Theo Nghị quyết 30 của Quốc hội, ngành ngân hàng được giao triển khai gói hỗ trợ 2% lãi suất quy mô 40.000 tỷ đồng cho vay với doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong hai năm 2022 - 2023. Đây là một trong số chính sách nhằm giúp doanh nghiệp, người dân giảm chi phí kinh doanh, khôi phục sản xuất, hỗ trợ phục hồi kinh tế.
Theo đó, đến hết năm 2023, gói hỗ trợ lãi suất 2% thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội mới giải ngân khoảng 1.218 tỉ đồng (tương đương 3,05% tổng quy mô chính sách).
Số tiền hỗ trợ lãi suất lũy kế từ đầu chương trình đạt khoảng 1.218 tỉ đồng (tương đương khoảng 3,05% tổng quy mô chính sách) cho gần 2.300 khách hàng. Như vậy, còn khoảng 38.782 tỉ đồng thuộc gói hỗ trợ không sử dụng hết.
Trên thực tế, cuối năm 2023, số giải ngân này tăng thêm không nhiều so với thời điểm Chính phủ báo cáo Quốc hội vào tháng 10/2023 là 873 tỉ đồng. Thời điểm đó, Chính phủ đề xuất Quốc hội cho phép thực hiện tiếp gói hỗ trợ lãi suất tới hết năm 2023.
Đây là mức khá thấp so với số vốn được đưa ra nghị quyết mà Quốc hội thông qua 40.000 tỉ đồng, sử dụng từ ngân sách nhà nước để hỗ trợ 2% lãi suất cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh có khả năng trả nợ, có khả năng phục hồi; cho vay cải tạo chung cư cũ, xây dựng nhà ở xã hội, nhà cho công nhân mua, thuê và thuê mua.
Do vậy, Chính phủ nêu quan điểm với số vốn không giải ngân hết, sau khi kết thúc chương trình năm 2022 và năm 2023 sẽ trình Quốc hội hủy dự toán, kế hoạch vốn. Việc này cũng không ảnh hưởng tới bội chi do đây là khoản chưa huy động.
Theo Chính phủ, tỷ lệ giải ngân thấp do khách hàng đủ điều kiện nhưng chọn không tham gia chính sách, chủ yếu do tâm lý e ngại thanh, kiểm tra. Họ cũng cân nhắc giữa việc được hỗ trợ lãi suất và chi phí phát sinh nếu nhận hỗ trợ, như phải theo dõi hồ sơ, chứng từ, tuân thủ các thủ tục hậu kiểm, thanh tra, kiểm toán của cơ quan nhà nước.
Khách hàng cũng có tâm lý lo ngại trường hợp bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định phải thu hồi số tiền hỗ trợ lãi suất, do khoản này đã được hạch toán vào lợi nhuận doanh nghiệp và chia cổ tức cho cổ đông. Chưa kể việc xác định đối tượng khách hàng thuộc diện "có khả năng phục hồi" theo quy định tại nghị quyết số 43 gặp khó khăn, bởi có trường hợp dù có khả năng trả nợ nhưng khó khẳng định có khả năng phục hồi.
"Khách hàng có khả năng trả nợ nhưng không thể khẳng định có khả năng phục hồi", báo cáo nêu, thêm rằng họ e ngại trường hợp được hỗ trợ, sau đó kinh doanh suy giảm sẽ bị cơ quan thanh, kiểm tra đánh giá "trục lợi chính sách". Trong khi, một số doanh nghiệp có doanh thu, lợi nhuận ở giai đoạn dịch bệnh cao hơn hiện tại nên khó đánh giá đáp ứng tiêu chí "phục hồi".
Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp trở lại hoạt động bình thường sau dịch có nhu cầu thay đổi so với thời điểm ban hành chính sách. Lúc này, họ cần được hỗ trợ trực tiếp hoặc giảm thuế, phí, lệ phí, thay vì hỗ trợ lãi suất.
Nhiều hộ gia đình sản xuất, kinh doanh vay vốn tại các ngân hàng thương mại nhưng không đăng ký hộ kinh doanh nên không thuộc nhóm hỗ trợ. Một số nguyên nhân khác được Chính phủ nêu như khách hàng xuất khẩu chọn vay bằng USD để tận dụng lãi suất thấp và nguồn thu bằng ngoại tệ, hoặc đã được hỗ trợ theo các chương trình tín dụng của ngân sách địa phương, ngân hàng.
Huyền My (t/h)
Link nội dung: https://doanhnghiepvaphapluat.vn/goi-ho-tro-lai-suat-40000-ty-dong-moi-giai-ngan-3-a14202.html